Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị ở các trường đại học trong bối cảnh hiện nay
Vấn đề đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học cũng như bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay trở thành những yêu cầu hết sức cấp thiết. Trong đó, việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị có ý nghĩa quyết định.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(1), “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(2). Nhận thức rõ điều này, Đảng ta đặt ra yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ vừa có phẩm chất đạo đức cách mạng, vừa có năng lực chuyên môn. Việc xây dựng đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị cũng nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước. Ngày 18/01/2019 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 89/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030. Tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “cùng với đề cao vị trí, vai trò và trách nhiệm xã hội, cần đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt”(3). Đây chính là những căn cứ, cơ sở tạo ra hành lang pháp lý quan trọng để các trường tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị.
Thực tế thời gian qua, "đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị tại các trường Đại học được bố trí, sắp xếp phù hợp với yêu cầu thực tiễn; có phẩm chất, năng lực đáp ứng cơ bản tốt những yêu cầu, nhiệm vụ chung trong công tác đào tạo, chất lượng đội ngũ giảng viên từng bước được chuẩn hóa. Phần lớn đội ngũ giảng viên có kiến thức chuyên môn tương đối sâu, rộng, có kinh nghiệm và tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy. Giảng viên cũng thường xuyên được bồi dưỡng, cập nhật về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Bên cạnh đó, các giảng viên đều có trình độ trung cấp lý luận trở lên góp phần nâng cao chất lượng, uy tín khi đứng lớp giảng dạy cho mỗi giảng viên. Đa số giảng viên có trách nhiệm, nhiệt huyết với sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị… Tuy nhiên, bên cạnh đó vấn đề chất lượng của đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị vẫn còn một số bất cập, hạn chế cần khắc phục như: số lượng, tỉ lệ giảng viên đạt trình độ Tiến sĩ, tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư còn chưa cao, chưa đồng đều giữa các trường"(4). Một bộ phận giảng viên còn chưa tích cực, yếu và thiếu chủ động trong công tác nghiên cứu, vận dụng lý luận vào thực tiễn; còn xuất hiện tình trạng giảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa sút ý chí, nhạt phai lý tưởng. Cụ thể là: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”(5).
Xuất phát từ thực tế trên, để có thể phát huy ngày càng hiệu quả vai trò của đội ngũ cán bộ, giảng viên giảng dạy lý luận chính trị trong tình hình mới, điều kiện đặt ra là đội ngũ này cần phải đáp ứng được những yêu cầu như sau: Một là, giảng viên lý luận chính trị cần có lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống giản dị, trong sáng. Điều này được thể hiện ở sự trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ động, tích cực, luôn đi đầu trên mặt trận tư tưởng, kiên quyết đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Hai là, giảng viên lý luận chính trị cần phải có năng lực, trình độ chuyên môn về lý luận chính trị. Đặc biệt, mỗi giảng viên cần tự mình ý thức việc tự học để không ngừng nâng cao hiểu biết, trau dồi chuyên môn thêm sâu và rộng, thường xuyên cập nhật và đưa vào giảng dạy các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước là các nghị quyết tại các đại hội Đảng. Ba là, có lòng yêu nghề, say mê, nhiệt huyết với nghề. Đây chính là cơ sở, động lực để mỗi giảng viên luôn cố gắng nỗ lực, tích cực sáng tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy để đưa đến những bài giảng hấp dẫn, thu hút, tạo hứng thú cho người học. Bốn là, giảng viên lý luận chính trị phải có năng lực thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Bởi nghiên cứu khoa học là một trong hai nhiệm vụ trọng tâm của mỗi giảng viên, cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng đào tạo. Thông qua quá trình nghiên cứu khoa học sẽ giúp cho đội ngũ giảng viên tích lũy thêm kiến thức, mở rộng, nâng cao hơn hiểu biết của bản thân về lĩnh vực chuyên môn đang giảng dạy từ đó góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả đào tạo. Năm là, cần có sự nhanh nhạy, thường xuyên nắm bắt các vấn đề thực tế, cập nhật thông tin xã hội có liên quan áp dụng vào bài giảng để làm sáng tỏ hơn lý luận, đồng thời đưa lý luận gắn với thực tiễn, từ đó tạo hiệu quả cao trong công tác tuyên truyền lý luận chính trị.
Trước yêu cầu đổi mới, để có thể nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị trong bối cảnh hiện nay các trường đại học cần thực hiện một số giải pháp sau. Thứ nhất, cần đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng làm tốt công tác quy hoạch, nhằm tạo nguồn đội ngũ giảng viên lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Muốn làm được điều này, cần xây dựng và thực hiện đề án, chiến lược phát triển đội ngũ giảng viên một cách dân chủ, khách quan, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Do đó, hơn ai hết, Đảng ủy, Ban Giám hiệu mỗi cơ sở đào tạo cần nhận thức sâu sắc về điều này từ đó chủ động, tích cực trong việc triển khai các nhiệm vụ cụ thể để xây dựng một đội ngũ giảng viên không chỉ đảm bảo về số lượng mà còn đảm bảo cả về chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Trên cơ sở đó có thể phân công, bố trí cán bộ đảm bảo đúng người, đúng chuyên môn, phát huy được sở trường của từng cá nhân.
Thứ hai, tăng cường chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt các quan điểm, nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ, yêu cầu về xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới cho đội ngũ giảng viên lý luận chính trị; đa dạng hóa các hình thức, phương pháp tuyên truyền, nâng cao hơn nữa trình độ nhận thức, phát huy ngày càng hiệu quả vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ là giảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ giảng viên lý luận chính trị có trình độ cao.
Thứ ba, nâng cao phẩm chất chính trị, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho mỗi giảng viên giảng dạy lý luận chính trị. Để làm tốt được giải pháp này, ngoài những quy định chung, cơ chế xử lý khen thưởng nghiêm minh rất cần đến tinh thần, sự phấn đấu nỗ lực tự tu dưỡng, tự rèn luyện của mỗi giảng viên. Đồng thời, cần đẩy mạnh tinh thần tự phê bình và phê bình để tăng cường bản lĩnh chính trị, ý thức đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp cho đội ngũ giảng viên lý luận chính trị.
Thứ tư, phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong quá trình tự đào tạo, tự bồi dưỡng nhằm không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn đặc biệt đối với đội ngũ giảng viên trẻ. Việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn giảng viên lý luận chính trị theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hóa là hết sức cần thiết để chúng ta có một đội ngũ giảng viên lý luận chính trị giỏi vừa “hồng” vừa “chuyên”. Do đó, mỗi giảng viên cần xác định rõ trách nhiệm của mình trong quá trình tự học, tự đào tạo, phát triển bản thân, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo, truyền cảm hứng này đến người học.
Thứ năm, kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Mỗi giảng viên giảng dạy lý luận chính trị ngoài công tác giảng dạy chuyên môn cần tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần luận giải những vấn đề lý luận mới, đang đặt ra. Tích cực tham gia công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, những biểu hiện sai trái trong đời sống, đặc biệt là trên không gian mạng xã hội, nơi hiện nay được xem là một trong những phương thức tấn công mới của các thế lực phản động, thù địch.
Như vậy có thể thấy, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên nói chung và đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị nói riêng là một yêu cầu mang tính thiết thực nảy sinh trong đời sống thực tiễn. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi các thế lực thù địch vẫn đang tăng cường các hoạt động chống phá, đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” thì việc nâng cao vai trò của đội ngũ cán bộ là giảng viên lý luận chính trị ở các trường đại học lại càng là vấn đề quan trọng và cần thiết hơn nữa trong việc trang bị cho học viên những kiến thức chính trị để chống lại quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch một cách chính xác, khoa học, có luận cứ, luận điểm rõ ràng./.
____________________________________
(1), (2) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.5, tr.309.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.1, tr.156.
(4) Phụ lục số 15: Kết quả xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên của trường chính trị, trường bộ, ngành năm 2022 (ban hành kèm theo Báo cáo số: 1747 - BC/HVCTQG ngày 15/02/2023.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
- Tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay
- Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số
- Khu vực duyên hải miền Trung thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển và thích ứng với biến đổi khí hậu
Xem nhiều
- 1 Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- 2 Podcast - biểu tượng sức mạnh của phát thanh hiện đại
- 3 Vấn đề thu phí trên báo mạng điện tử
- 4 Nâng cao hiệu quả công tác truyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay
- 5 Mô hình Hội đồng trường đại học trên thế giới và những khó khăn khi áp dụng tại Việt Nam
- 6 Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Mô hình Hội đồng trường đại học trên thế giới và những khó khăn khi áp dụng tại Việt Nam
Giáo dục đại học Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu rộng nhằm thích ứng hơn với sự thay đổi nhanh chóng của thời đại. Trong bối cảnh đó, chủ trương của Đảng và Nhà nước về tự chủ đại học được coi là chính sách ưu tiên hàng đầu, phù hợp với sự phát triển của hệ thống giáo dục trên thế giới. Trong khi Hội đồng trường (HĐT) đại học là một thiết chế rất phổ biến ở các quốc gia phương Tây, việc áp dụng mô hình này ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn dù nước ta đã có những quy định khá cụ thể trong luật. Bài viết nhằm tìm hiểu mô hình HĐT đại học ở một số quốc gia trên thế giới và chỉ ra những khó khăn đối với các trường đại học ở Việt Nam khi thực hiện mô hình quản trị mới này.
Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
Dư luận xã hội (DLXH) là một hiện tượng xã hội đặc biệt thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội, tức khách thể của DLXH quy định. Tuy nhiên, các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu học và văn hóa, tâm lý,… của chủ thể DLXH cũng như môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nơi DLXH diễn ra, đều tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình hình thành, phát triển và biến đổi của DLXH. Do đó, những nhân tố tác động đến quá trình hình thành DLXH có thể khái quát thành ba nhóm: nhóm yếu tố thuộc về khách thể của DLXH; nhóm yếu tố thuộc về chủ thể của DLXH và nhóm yếu tố thuộc về môi trường xã hội.
Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
Hội nghị Paris là cuộc đụng đầu ngoại giao tay đôi đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, kết thúc bằng Hiệp định Paris. Hiệp định Paris đã góp phần tạo nên bước ngoặt rất quan trọng trong cuộc kháng chiến của dân tộc ta, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, từng bước đi vào giải pháp, chấm dứt chiến tranh và can thiệp ở Việt Nam. Việc Mỹ buộc phải “cút” khỏi miền Nam đã mở ra cục diện chính trị và chiến trường thuận lợi để quân và dân ta tiến tới “đánh cho ngụy nhào” mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay
Tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong bối cảnh hiện nay
Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên là nội dung, biện pháp quan trọng của việc đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để gắn kết dạy “chữ” với dạy “người”, đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao “vừa hồng”, “vừa chuyên” cho đất nước. Bài viết làm rõ vai trò của giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên; thực tiễn giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên với những điểm mạnh, hạn chế, nguyên nhân; đồng thời, đề xuất các biện pháp tăng cường giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong thời gian tới.
Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số
Quyền tiếp cận thông tin cho đồng bào dân tộc thiểu số
Nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, nhiều năm qua, Việt Nam đã quan tâm xây dựng và ban hành nhiều chính sách, quy định pháp luật đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn, trong đó, chú trọng quyền tiếp cận thông tin đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin cho người dân bằng những giải pháp đồng bộ, những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trên thực tế đã mang lại hiệu quả tích cực, góp phần phát huy, thúc đẩy vai trò của người dân, trong đó có cả các đồng bào dân tộc thiểu số trong các hoạt động xã hội và phát triển đất nước.
Bình luận