Vị trí, vai trò của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Trong thế kỷ XXI, Ấn Độ có nhiều bước chuyển mình ngoạn mục, đang dần chuyển mình từ cường quốc khu vực thành cường quốc toàn cầu, là một cực quan trọng trong trật tự thế giới có xu hướng đa cực như hiện nay. Nhận thức về vị thế cường quốc toàn cầu của Ấn Độ được thể hiện mạnh mẽ trong trong chính sách đối ngoại giai đoạn cầm quyền của Thủ tướng Manmohan Singh (2004 - 2014) và nhất là giai đoạn của Narendra Modi (2014 - nay). Trong tổng thể chính sách đối ngoại hướng Đông và sau này là Hành động hướng Đông của Ấn Độ, Việt Nam là một điểm nhấn.
Vậy tại sao Việt Nam lại có vị trí, vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ kể từ năm 2004 đến nay? Bài viết này góp phần trả lời câu hỏi đó với hai nội dung chính: (i) Khái lược chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ năm 2004 - nay và (ii) Vị trí, vai trò của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ.
1. Khái lược chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ năm 2004 đến nay
Sau Chiến tranh Lạnh, đặc biệt là từ khi bước sang thế kỷ XXI, Ấn Độ thực hiện đổi mới về tư duy đối ngoại, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, từ bỏ tư duy không liên kết, chống phương Tây. Để đạt mục tiêu là cường quốc châu Á - Thái Bình Dương và hướng tới vai trò cường quốc toàn cầu, chính sách đối ngoại của Ấn Độ luôn kết hợp các mục tiêu phát triển, an ninh và nâng cao vị thế, ảnh hưởng; trong đó mục tiêu phát triển kinh tế được đặt lên hàng đầu, vì kinh tế phát triển sẽ tạo nguồn lực để phát triển các lĩnh vực khác, nâng cao đời sống nhân dân và mở rộng ảnh hưởng ra bên ngoài.
Ba khu vực ảnh hưởng trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ là: (i) toàn cầu: thúc đẩy trật tự kinh tế thế giới công bằng và đa cực, trở thành ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, can dự nhiều vào các vấn đề quốc tế(1); (ii) Nam Á: xây dựng quan hệ hòa bình, tin cậy với các nước láng giềng; duy trì vai trò đầu tàu và tiếp tục mở rộng ảnh hưởng tại khu vực; đảm bảo vành đai an ninh cho Ấn Độ, hạn chế ảnh hưởng của các nước lớn; (iii) châu Á - Thái Bình Dương: thực hiện chính sách cân bằng nước lớn, nhưng xích lại gần Mỹ hơn, tăng cường hợp tác với các nước châu Á - Thái Bình Dương, phát huy ảnh hưởng tại khu vực.
Nội dung chủ yếu trong Chính sách hướng Đông dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh bao gồm hai nhóm mục tiêu:
Nhóm các mục tiêu chính trị - chiến lược:
Chính sách hướng Đông của Ấn Độ được triển khai với mục đích xây dựng, mở rộng và cạnh tranh ảnh hưởng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhằm kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc tại Nam Á và Ấn Độ Dương - địa bàn mà Ấn Độ coi là phạm vi ảnh hưởng truyền thống của mình.
Trong bài phát biểu năm 2005 tại Malaysia, Thủ tướng Manmohan Singh đã nói: “Đó không đơn thuần là một chính sách kinh tế đối ngoại, mà còn là một bước chuyển hướng chiến lược trong cách nhìn nhận của Ấn Độ về thế giới và vị trí của Ấn Độ trong nền kinh tế toàn cầu đang phát triển. Trên tất cả là nỗ lực hướng tới các nước láng giềng có chung nền văn minh với chúng tôi ở Đông Nam Á và Đông Á. Tôi luôn coi vận mệnh của Ấn Độ gắn với các nước này và nhất là Đông Nam Á. Tôi nhắc lại cam kết của Ấn Độ trong việc cùng ASEAN và các nước Đông Á biến thế kỷ XXI thực sự là thế kỷ của châu Á”(2).
Trung Quốc ngày càng gia tăng ảnh hưởng tại Nam Á và Ấn Độ Dương buộc Ấn Độ một mặt nâng cao tiềm lực kinh tế và quốc phòng, mặt khác trực tiếp cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc ở các khu vực có lợi ích chiến lược đối với quốc gia này, trong đó có khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Trong một bài phát biểu tại New Delhi vào tháng 9.2010, Thủ tướng Manmohan Singh đã cảnh báo “Trung Quốc đang nỗ lực mở rộng ảnh hưởng ở Nam Á, gây bất lợi cho Ấn Độ và “Trung Quốc muốn có chỗ đứng ở Nam Á, chúng ta phải thích ứng với thực tế này và chúng ta cần phải cảnh giác”(3).
Những nỗ lực của Ấn Độ trong việc tham gia vào các cơ chế hợp tác quan trọng ở khu vực như ASEM, ARF, ASEAN+1, EAS, ADMM+ đã minh chứng cho nhóm các mục tiêu chính trị - chiến lược này của chính sách hướng Đông.
Nhóm các mục tiêu kinh tế - xã hội:
Chính sách hướng Đông của Ấn Độ còn được kỳ vọng đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội không kém phần quan trọng sau:
(i) Duy trì mức tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế Ấn Độ thông qua các mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các quốc gia Đông Á. “Ấn Độ tin rằng Đông Á nắm giữ chiếc chìa khóa cho tăng trưởng kinh tế ổn định của Ấn Độ, đặc biệt khi các hoạt động kinh tế quốc tế ngày càng trở nên quan trọng đối với tăng trưởng của Ấn Độ trong bối cảnh các khu vực khác đang có xu hướng tăng trưởng chậm lại cũng như gia tăng chính sách bảo hộ”(4).
(ii) Hội nhập với khu vực Đông Nam Á nói riêng và châu Á - Thái Bình Dương nói chung là một mục tiêu quan trọng của chính sách hướng Đông. Mục tiêu này nhấn mạnh tới việc xây dựng các hiệp định thương mại tự do (FTA), các hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện/hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (CECA/CEPA) giữa Ấn Độ với khu vực. Ấn Độ xác định rằng, xây dựng các FTA, CECA/CEPA với ASEAN và các nước ở Đông Nam Á nói riêng, với châu Á - Thái Bình Dương nói chung là con đường để nước này hiện thực hóa việc xây dựng Cộng đồng kinh tế châu Á - một hình thức liên kết kinh tế nhằm đối trọng với EU và khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), nhưng quan trọng hơn là để Ấn Độ không bị đứng ngoài các khối kinh tế chủ đạo của thế giới và khẳng định vị thế cường quốc của mình, trước hết là tại khu vực châu Á.
(iii) Thúc đẩy sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở các bang vùng Đông Bắc của Ấn Độ, những bang kém phát triển về kinh tế - xã hội và bất ổn về an ninh. Tại cuộc họp lần thứ 52 vào tháng 2.2006, Ủy ban Đông Bắc (NEC) nhấn mạnh đến việc tăng cường biên mậu, coi đây là nhiệm vụ, là một phần của chính sách hướng Đông, nên khu vực phải được hỗ trợ để có được lợi ích đầy đủ từ thương mại với các nước Đông Nam Á.
Như vậy, có thể thấy rằng, mục tiêu chung nhất của chính sách hướng Đông là góp phần đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc kinh tế và quân sự không chỉ ở khu vực châu Á, mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Với tư cách là “một phần sống còn”(5) trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ, như lời của Bộ trưởng Quốc phòng Pranab Mukherjee: “Chính sách hướng Đông còn hơn cả một mệnh lệnh kinh tế. Đó là sự chuyển hướng quan trọng trong nhìn nhận của Ấn Độ về thế giới và vị trí của nước này trong bối cảnh toàn cầu thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh”(6).
Những điều chỉnh trong Chính sách Hành động hướng Đông của Ấn Độ từ năm 2014 đến nay:
Năm 2014, sau khi thắng cử, trở thành Thủ tướng Ấn Độ, ông Narenda Modi đã điều chỉnh chính sách đối ngoại từ hướng Đông sang Hành động hướng Đông; thể hiện sự quyết tâm hành động của Chính phủ mới - chủ động, tích cực và hợp tác hiệu quả hơn trong quan hệ với châu Á - khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới với nhiều nền kinh tế lớn, đang phát triển có tốc độ tăng trưởng cao. “Hướng Đông không còn phù hợp, giờ đây chúng tôi cần Hành động hướng Đông” - Bà Sushma Swaraj, Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ đã tuyên bố như vậy trong chuyến thăm Singapore vào tháng 8.2014(7).
Chính sách “Hành động hướng Đông” của Thủ tướng Narenda Modi là sự tiếp nối đường hướng đối ngoại đa liên kết (multi-alignment) của Thủ tướng tiền nhiệm Manmohan Singh. Sự đa liên kết nhấn mạnh vào sự tham gia gắn bó với các tổ chức đa phương khu vực, sử dụng quan hệ đối tác chiến lược để thúc đẩy phát triển kinh tế và an ninh quốc gia của Ấn Độ, cũng như phát huy ảnh hưởng và quảng bá các giá trị của Ấn Độ ra thế giới.
Mục tiêu điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ:
Thúc đẩy sự phát triển kinh tế, đặc biệt là đẩy mạnh sự hiện diện của Ấn Độ ở các thị trường mới;
Tăng cường an ninh của Ấn Độ ở khu vực láng giềng, phấn đấu trở thành một “nước lãnh đạo” trong khu vực;
Nâng cao tầm ảnh hưởng của Ấn Độ trên thế giới, nỗ lực để trở thành một “nước lãnh đạo” và “một lực lượng bảo vệ trật tự an ninh toàn cầu”.
Như vậy, khác với các thủ tướng tiền nhiệm, Thủ tướng Narendra Modi xác định lại thứ tự ưu tiên cho các mục tiêu đối ngoại, lấy mục tiêu kinh tế là hàng đầu, cụ thể hóa các mục tiêu, xác định rõ khu vực trọng điểm và thể hiện tham vọng trở thành nước lớn - “nước lãnh đạo”.
Bên cạnh đó, những chính sách đối ngoại phù hợp mà các chính phủ tiền nhiệm đã triển khai, nhưng chưa hoàn thiện đều được “nâng tầm” sao cho hiệu quả hơn:
(i) Chính sách hướng Đông được điều chỉnh thành Hành động hướng Đông với tốc độ quyết liệt hơn giúp Ấn Độ tiến thêm một bước dài trong quan hệ hợp tác song phương và đa phương với các quốc gia trong khu vực Đông Á, Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Năm 2016, Việt Nam và Ấn Độ đã nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện.
(ii) Chính sách Ấn Độ Dương cũng được Chính phủ của Thủ tướng Narendra Modi chú trọng hơn, tập trung đến phương diện hợp tác đa phương thay vì khống chế và kìm hãm như trước.
(iii) Chính sách Nghĩ về hướng Tây cũng cho thấy sự chuyển biến trong nhận thức của Ấn Độ: nếu trước đây chỉ quan tâm tới lợi ích về kinh tế, thì nay Ấn Độ còn đồng thời quan tâm đến lợi ích an ninh.
(iv) Chính sách quyền lực mềm tuy vẫn dựa trên nền tảng văn hóa truyền thống, nhưng giờ bổ sung thêm một nội dung được quan tâm chú trọng đó là cộng đồng Ấn kiều trên thế giới.
Điểm quan trọng trong sự điều chỉnh chính sách của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Narendra Modi là sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy “đa liên kết” và trong nhận thức về sức mạnh quốc gia để hướng tới xây dựng Ấn Độ trở thành một cường quốc toàn cầu, một cực quan trọng trong xu hướng đa cực của hệ thống thế giới hiện nay.
2. Vai trò, vị trí của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ
Những nội dung chủ yếu trong chính sách hướng Đông và Hành động hướng Đông của Ấn Độ cho thấy, Việt Nam ngày càng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong chính sách đối ngoại của quốc gia này, nhất là trong bối cảnh khu vực Nam Á, Đông Nam Á có nhiều biến động phức tạp, khó lường như hiện nay.
Chính sách hướng Đông/ Hành động hướng Đông có phạm vi không gian rộng lớn chạy dài từ New Zealand lên Đông Nam Á cho đến tận vùng Đông Bắc Á. Trong chính sách này, Đông Nam Á trở thành khu vực được Ấn Độ quan tâm đặc biệt, mà Việt Nam với mối quan hệ hữu nghị, truyền thống lâu đời được coi là tâm điểm của khu vực. Ấn Độ coi Việt Nam là cửa ngõ để mở rộng quan hệ với các nước ASEAN và sau đó vươn ra khu vực. Điều này được các nhà lãnh đạo Ấn Độ nhiều lần khẳng định.
Năm 2007, khi trả lời phỏng vấn phóng viên Thông tấn xã Việt Nam tại New Delhi trước thềm chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tuớng Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh nói: Chúng tôi coi sự hợp tác với Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập với toàn khu vực. Ấn Độ và Việt Nam có chung các mục tiêu và thường có quan điểm tương đồng trong nhiều vấn đề quốc tế. Chúng tôi hy vọng, Việt Nam ủng hộ Ấn Độ tăng cường quan hệ hợp tác và liên kết với khu vực ASEAN(8). Tháng 9.2016 trong cuộc gặp với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi cũng khẳng định Việt Nam là một trụ cột quan trọng trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ và trong phát triển quan hệ của Ấn Độ với ASEAN(9).
Dưới đây là một số lý giải cho câu hỏi vì sao Việt Nam có vị trí, vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ kể từ năm 2004 - nay:
Một là, xét về lợi ích an ninh, Việt Nam có vị thế địa - chiến lược và địa - chính trị quan trọng trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc, là nơi tiếp giáp cả phần đất liền và biển giữa Đông Nam Á và Đông Bắc Á, lại có bờ biển dài, hướng ra biển Đông. Địa thế Việt Nam được xem như “ban công nhìn ra Thái Bình Dương” - nơi con đường giao thông huyết mạch trên biển của thế giới đi qua với tầm nhìn rộng, bao quát.
Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á, mà còn là vùng biển quan trọng của các nước châu Á - Thái Bình Dương. Vùng biển này có giá trị địa - chiến lược cả về chính trị, kinh tế và quân sự, có tầm quan trọng đặc biệt đối với quốc phòng, an ninh của các quốc gia có liên quan; là “bàn đạp” chiến lược để mở rộng ảnh hưởng ở Ðông Nam Á, khống chế Tây Thái Bình Dương, Đông Bắc Ấn Độ Dương. Đây là tuyến đường giao thương trên biển quan trọng, đảm bảo cho việc vận chuyển hàng hóa và có tác động trực tiếp đến các nền kinh tế thế giới, đặc biệt là các cường quốc. Chính vì vậy mà Biển Đông đã trở thành một trong những “điểm nóng” về lợi ích của nhiều nước lớn.
Là quốc gia có vị trí địa lý quan trọng trong khu vực, Việt Nam là cầu nối trên đất liền giữa phần lớn nhất của lục địa Á, Âu với khu vực Đông Nam Á, đa sắc tộc, giàu tài nguyên; Hoàng Sa, Trường Sa nằm trên tuyến hành lang đường biển thuận tiện với khoảng 50% khối lượng hàng hóa luân chuyển của thế giới đi qua vùng biển này. Cùng với tài nguyên phong phú, dân số khá lớn;… những điều kiện này đã khiến Việt Nam có vị trí địa - chính trị quan trọng bậc nhất trong khu vực và trên thế giới.
Mặc dù là quốc gia Nam Á và không thuộc khu vực Biển Đông, nhưng Ấn Độ có lợi ích cả về kinh tế và an ninh - chính trị ở vùng biển này. Bên cạnh lợi ích giao thương biển, lợi ích của Ấn Độ còn được thể hiện qua hoạt động khai thác tài nguyên dầu khí, đặc biệt là với Việt Nam nhằm đảm bảo an ninh năng lượng.
Bên cạnh đó, Việt Nam có vai trò quan trọng trong chính sách quốc phòng của Ấn Độ. Ấn Độ đánh giá cao khả năng và ý chí chiến đấu của quân đội Việt Nam. Ấn Độ muốn thúc đẩy hợp tác quốc phòng với Việt Nam để cùng giải quyết những vấn đề chung.
Với vị trí địa - chính trị quan trọng và tiềm năng phát triển, Việt Nam được nhiều học giả Ấn Độ nhận định là cường quốc tiềm năng tại Đông Nam Á. Trong chuyến thăm Việt Nam năm 2010, Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ A.K. Antony khẳng định, Việt Nam chiếm vị trí chiến lược trong chính sách của Ấn Độ.
Năm 2014, Thủ tướng Narendra Modi điều chỉnh chính sách hướng Đông sang Hành động Hướng Đông là do Ấn Độ đã có một thực lực lớn hơn để có thể bảo vệ lợi ích quốc gia ở hướng Đông trước các mối đe dọa ngày càng nghiêm trọng.
Hai là, xét về lợi ích ảnh hưởng trong các cơ chế khu vực: Ấn Độ nhìn nhận Việt Nam là cầu nối quan trọng cho Ấn Độ để tăng cường hợp tác trong các cơ chế đa phương tại châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Đông Nam Á với ASEAN ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong các liên kết khu vực cũng như giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu.
Trước chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng năm 2007, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh khẳng định: “Ấn Độ coi hợp tác với Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong quá trình Ấn Độ hội nhập toàn khu vực”.
Với ASEAN, Việt Nam là thành viên quan trọng trong tổ chức khu vực Đông Nam Á, trong khi ASEAN là tác nhân định hình then chốt, là trụ cột trọng tâm của Hành động Hướng Đông. Do đó, trong tầm nhìn của Ấn Độ, Việt Nam với mối quan hệ truyền thống hữu nghị sẽ là cầu nối giúp Ấn Độ thúc đẩy và mở rộng hợp tác liên kết với ASEAN. Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi nhận định: “Việt Nam là một thành viên không thể thiếu của ASEAN và là một trụ cột rất quan trọng trong chính sách Hành động hướng Đông của chúng tôi. Việt Nam là nước điều phối quan hệ giữa ASEAN và Ấn Độ trong giai đoạn 2015-2018 và cả hai nước đều cam kết tăng cường mối quan hệ đối tác trong các khuôn khổ Hợp tác Ấn Độ - ASEAN và Mekong - sông Hằng”(10).
Sự tham gia chiến lược của Ấn Độ vào các cơ chế khu vực là bước đệm quan trọng cho vai trò quốc tế của Ấn Độ trong việc giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu.
Ba là, xét về lợi ích kinh tế: với vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú, con người thông minh, năng động, cần cù, môi trường kinh tế ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục, Việt Nam là đối tác tiềm năng, là thị trường xuất khẩu, đầu tư, thương mại,... triển vọng, hấp dẫn các doanh nghiệp Ấn Độ đến đầu tư, kinh doanh. Bên cạnh đó, các mỏ dầu ở ngoài khơi Việt Nam có một sức hấp dẫn to lớn đối với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Ấn Độ và Việt Nam trong lĩnh vực hợp tác năng lượng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước, đặc biệt là kinh tế của Ấn Độ trong bối cảnh bất ổn kéo dài ở khu vực Trung Đông. Vì vậy, Việt Nam trở thành yếu tố quan trọng trong chính sách hướng Đông/ Hành động hướng Đông của Ấn Độ.
Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ có nền tảng vững chắc từ truyền thống hữu nghị, sự tin cậy chính trị và sự hội tụ chiến lược trong bàn cờ thế giới. Tiềm năng hợp tác song phương rất lớn trong bối cảnh cả hai nước đang là hai nền kinh tế phát triển năng động, thuộc hàng nhanh nhất thế giới...(11).
Năm 2007, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ được nâng cấp lên đối tác chiến lược và năm 2016 tiếp tục được nâng cấp lên đối tác chiến lược toàn diện cùng với những thành tựu trong hợp tác trên một số lĩnh vực chính như chính trị - ngoại giao, kinh tế, an ninh - quốc phòng, khoa học - công nghệ và văn hóa - giáo dục. Đó là những minh chứng hùng hồn cho vai trò của không chỉ Việt Nam mà cả Ấn Độ trong chính sách đối ngoại của hai nước.
Trong thế kỷ XXI, với thế và lực mới, Ấn Độ và Việt Nam ngày càng nâng cao vị thế của mình trong khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh hiện nay, Ấn Độ không chỉ là cường quốc khu vực Nam Á, mà còn có tham vọng trở thành cường quốc toàn cầu. Trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ, Việt Nam đã và đang đóng vai trò quan trọng, trên cả phương diện kinh tế, an ninh và ảnh hưởng. Với vị trí địa - chính trị, địa - chiến lược quan trọng hiện nay, Việt Nam là đối tác ưu tiên hàng đầu ở Đông Nam Á của Ấn Độ./.
______________________________
(1) Đặng Đình Quý, Nguyễn Vũ Tùng (2011), Tiếp cận vấn đề đưa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam đi vào chiều sâu, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1 (84), tháng 3.2011, tr.5-28 - 36.
(2) Embassy of India in USA (2005) Keynote Address by Prime Minister Dr. Manmohan Singh at Special Leader’s Dialogue of ASEAN Business Advisory.
(3) Reuters (2010), Manmohan Singh says China wants foothold in South Asia, http://in.reuters.com/article/idINIndia-51323020100907
(4) ASEAN, Joint Press Release The First ASEAN-India Joint Cooperation Committee Meeting New Delhi, 14-16 November 1996, D17, http://asean.org/?static_post=joint-press-release-the-first-asean-india-joint-cooperation-committee-meeting-new-delhi-14-16-november-1996.
(5) Ministry of External Affairs (2006), Present Dimensions of the Indian Foreign Policy’ - Address by Foreign Secretary Mr. Shyam Saran at Shanghai Institute of International Studies, Shanghai, http://www.mea.gov.in/Speeches-Statements.htm?dtl/ 2078/Present+Dimensions+of+the+Indian+Foreign+Policy++Address+by+Foreign+Secretary+Mr+Shyam+Saran+at+Shanghai+Institute+of+International+Studies+Shangha.
(6) Ministry of External Affairs (2006), “Indian Foreign Policy: A Road Map for the Decade Ahead” - Speech by External Affairs Minister Shri Pranab Mukherjee at the 46th National Defence College Course, http://www.mea.gov.in/Speeches-Statements.htm?dtl/2395/
(7) Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hành động phía Đông của Ấn Độ, http://dangcongsan.vn/the-gioi/tin-tuc/hanh-dong-phia-dong-cua-an-do-277698.html
(8)http://www.mofahcm.gov.vn/mofa/nr040807104143/nr040807105001/ns070704162122
(9) Danielle Rajendram, India’s new Asia - Pacific: Modi acts East, Analysis, Lowy Institute for international policy 2014, tr 8-9
(10) http://dangcongsan.vn/thoi-su/thu-tuong-an-do-narendra-modi-tra-loi-phong-van-phong-vien-ttxvn-truoc-them-chuyen-tham-viet-nam-405759.html
(11) Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ ngày càng phát triển sâu rộng và thực chất, http://dangcongsan.vn/chao-xuan-ky-hoi-2019/xuan-que-huong/quan-he-viet-nam-an-do-ngay-cang-phat-trien-sau-rong-va-thuc-chat-512209.html
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông tháng 2.2021
Bài liên quan
- Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- Học viện tổ chức chúc mừng Tết cổ truyền Bunpimay năm 2024 cho lưu học sinh nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
- Tiếp tục củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống, làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc
- Việt Nam - Trung Quốc trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Học viện tiếp và tọa đàm với đoàn đại biểu Ban Tổ chức Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
Xem nhiều
- 1 Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- 2 Chính sách phân quyền của chủ nghĩa tân tự do trong quản lý giáo dục đại học – Kinh nghiệm triển khai tại một số nước và gợi ý đối với Việt Nam
- 3 Học viện Báo chí và Tuyên truyền làm việc với đoàn Kiểm tra Cục Quản lý chất lượng, Bộ Giáo dục và Đào tạo
- 4 Báo Quân đội nhân dân trao giải Cuộc thi viết "Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới" lần thứ ba (năm 2023-2024)
- 5 Học viện tổ chức chúc mừng Tết cổ truyền Bunpimay năm 2024 cho lưu học sinh nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
- 6 Nhiều đóng góp có giá trị vào Đề cương chi tiết Báo cáo Tổng kết 40 năm đổi mới
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Chính sách phân quyền của chủ nghĩa tân tự do trong quản lý giáo dục đại học – Kinh nghiệm triển khai tại một số nước và gợi ý đối với Việt Nam
Chính sách phân quyền là một trong những xu hướng đáng chú ý trong chính sách giáo dục trên toàn thế giới dưới tác động của toàn cầu hóa và chủ nghĩa tân tự do (neoliberalism - một trường phái kinh tế và chính trị tập trung vào việc giảm sự can thiệp của chính phủ trong kinh tế và thúc đẩy tự do kinh doanh và thị trường). Phân quyền được hiểu là sự chuyển giao quyền quyết định về chính sách, kế hoạch, điều hành và phân bổ nguồn lực từ Bộ đến các sở và các trường học. Cơ cấu quản lý như vậy sẽ tăng cường quyền tự chủ và năng lực cạnh tranh giữa các trường, nhưng cũng có thể gia tăng khoảng cách giữa mục tiêu giáo dục và thành tích học tập. Trong bối cảnh quản lý tập trung của Việt Nam, câu hỏi liệu việc phân quyền có thể giúp giáo dục đại học giải quyết các vấn đề về chất lượng, sự bình đẳng và trách nhiệm giải trình hay không vẫn chưa được trả lời thỏa đáng. Vì vậy, bài báo này sẽ làm rõ một số vấn đề về chính sách phân quyền của chủ nghĩa tân tự do trong quản lý giáo dục đại học và bài học kinh nghiệm từ một số nước qua thực tế triển khai.
Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, PR và Thương hiệu thông báo tuyển sinh năm 2024 với 100 chỉ tiêu. Đây là chương trình nhượng quyền giữa Đại học Middlesex (Vương quốc Anh) và Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Tốt nghiệp Chương trình, sinh viên được nhận bằng Cử nhân Quảng cáo, PR và Thương hiệu có giá trị quốc tế và đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận.
Học viện tổ chức chúc mừng Tết cổ truyền Bunpimay năm 2024 cho lưu học sinh nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
Học viện tổ chức chúc mừng Tết cổ truyền Bunpimay năm 2024 cho lưu học sinh nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
Chiều 10/4/2024, tại Ký túc xá sinh viên, Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức chúc Tết cổ truyền Bunpimay năm 2024 cho các lưu học sinh nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào đang nghiên cứu và học tập tại Học viện.
Tiếp tục củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống, làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc
Tiếp tục củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống, làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc
Trong 15 năm qua kể từ khi Việt Nam và Trung Quốc thiết lập quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện (2008 - 2023), quan hệ giữa hai nước ngày càng phát triển theo hướng thực chất, hiệu quả với những thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh, văn hóa - xã hội. Trung Quốc là nước đầu tiên mà Việt Nam xây dựng quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, còn Việt Nam cũng là nước Đông Nam Á đầu tiên mà Trung Quốc thiết lập khuôn khổ quan hệ này. Đây là những động lực thúc đẩy quan hệ hai nước bước vào một giai đoạn phát triển mới, hướng tới tương lai.
Việt Nam - Trung Quốc trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội
Việt Nam - Trung Quốc trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội
(LLCT&TTĐT) Thực hiện nội dung của Biên bản ghi nhớ giữa Học viện Báo chí và Tuyên truyền với Trường Đảng Thành uỷ Thiên Tân (Trung Quốc) đã ký ngày 01/12/2022, sáng 28/11/2023, Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Trường Đảng Thành uỷ Thiên Tân (Trung Quốc) phối hợp tổ chức Tọa đàm khoa học quốc tế trực tuyến với chủ đề “Xây dựng hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa - Những thành tựu và kinh nghiệm của Việt Nam và Trung Quốc”.
Bình luận